
Ngũ hành
Bà con thân mến,
Trong suốt những năm tháng hành nghề, Lão vẫn luôn đau đáu một điều: làm sao để bà con hiểu được cốt lõi của Y học cổ truyền, chứ không chỉ là những bài thuốc. Mà muốn hiểu sâu, phải bắt đầu từ cái gốc – đó chính là Ngũ hành. Thứ không phải để thờ phụng, mà để vận dụng, để lý giải, để chữa lành.
Ngũ hành gồm Kim – Mộc – Thủy – Hỏa – Thổ. Nhưng đừng hiểu nôm na như kim loại, cây cối, nước lửa đất đá. Ngũ hành là biểu tượng cho quy luật vận hành của trời đất và cơ thể người – sinh ra, nuôi dưỡng, khắc chế, chế hóa… tạo nên một hệ thống quân bình.

Vui lòng để lại thông tin, Lão liên hệ bà con hỏi thăm chi tiết:
Ngũ hành trong khí trời – mùa vụ – phương hướng
Đông y luôn coi trọng thiên thời địa lợi. Bà con thấy đấy, xuân thì cây cối đâm chồi, hè thì rực lửa, thu thì hanh hao, đông thì lạnh lẽo, còn thời kỳ chuyển mùa là đất cát, ẩm ương. Đó là sự phân bố của:
- Mộc – xuân – phương Đông: tượng trưng cho sự sinh sôi, lan tỏa.
- Hỏa – hạ – phương Nam: khí dương bốc mạnh, nảy nở rực rỡ.
- Kim – thu – phương Tây: khí thu liễm, cây rụng lá, chuẩn bị thu hoạch.
- Thủy – đông – phương Bắc: khí lạnh ngưng tụ, cất trữ.
- Thổ – cuối mỗi mùa – trung ương: thời điểm quân bình, giao thời, trung chuyển.
Lão thường dặn bà con: Mỗi mùa, mỗi hành, có hành “vượng”, có hành “suy”. Như mùa xuân thì Mộc là vượng, Hỏa là tướng, còn Kim thì bị tù – đấy là lẽ khí vận. Người ta sinh ra vốn theo thiên khí ấy, cho nên bệnh tật cũng theo đó mà phát.
Ngũ hành trong tạng phủ, vị vị – khí chất – tính tình
Trong cơ thể con người, Ngũ hành không nằm ở đâu xa, mà chính là:
- Mộc: Can – Đởm → chủ sơ tiết, giải uất
- Hỏa: Tâm – Tiểu trường – Tam tiêu – Bào lạc → chủ thần minh, huyết mạch
- Thổ: Tỳ – Vị → chủ vận hóa, tiêu hóa
- Kim: Phế – Đại trường → chủ khí, bì mao
- Thủy: Thận – Bàng quang → chủ tàng tinh, sinh khí
Vị của hành cũng ứng với ngũ vị: Mộc là chua, Hỏa là đắng, Thổ là ngọt, Kim là cay, Thủy là mặn. Tính chất của thuốc cũng chia theo: ôn thuộc Thổ, hàn thuộc Thủy, lương thuộc Mộc, nhiệt thuộc Hỏa, táo thuộc Kim.
Lão từng gặp nhiều bà con thắc mắc: “Vì sao uống thuốc ngọt lại chữa bệnh dạ dày, sao thuốc đắng lại tốt cho tim?” – Đấy là vì vị đi vào tạng. Vị ngọt quy về Tỳ, vị đắng quy về Tâm, có lý cả đấy chứ chẳng phải ngẫu nhiên.
Ngũ hành – sinh khắc, tiết chế, bình khí
Bà con nhớ nhé, trong tự nhiên và trong người, hành nào cũng có sinh có khắc:
- Kim sinh Thủy, Thủy sinh Mộc, Mộc sinh Hỏa, Hỏa sinh Thổ, Thổ sinh Kim.
- Kim khắc Mộc, Mộc khắc Thổ, Thổ khắc Thủy, Thủy khắc Hỏa, Hỏa khắc Kim.
Nhưng Đông y không chỉ nhìn cái khắc mà còn xét xem nó là vượng, hưu, tù, tử theo thời điểm. Mùa xuân là lúc Mộc vượng, thì Kim sẽ tù – tức là bị hạn chế, Thổ là tử – tức là dễ suy yếu. Vì thế, muốn chữa trị phải biết lúc nào nên bổ, lúc nào nên tả, lúc nào nên bình.
Lão hay lấy ví dụ: muốn bổ Tỳ Thổ thì phải dưỡng Hỏa – vì Thổ sinh từ Hỏa. Nhưng nếu chỉ bổ Hỏa mà quên khí Tỳ, thì Hỏa lại hóa tà. Bổ một hành, cần hiểu cái gốc, cái gốc của cái gốc – đấy là bổ một lần, hai lần, ba lần – y lý sâu xa là vậy.
Ngũ hành – khí lý của trị liệu
“Bình khí” là gì? Không phải chỉ là thuốc cho cân bằng mà là phải trả lại đúng vai trò cho từng hành. Mộc phải phân bố ôn hòa, Hỏa phải sáng sủa mà không thiêu đốt, Thổ phải sinh hóa mà không cứng nhắc, Kim phải thu liễm mà không uất ức, Thủy phải cất chứa mà không ứ trệ.
“Nếu Hỏa quá vượng, thì phải lấy Thủy để tiết chế; nhưng nếu Thủy yếu, thì Hỏa sẽ hoành hành. Lý trị là ở chỗ ấy – không phải cứ hàn là tả, cứ nhiệt là thanh.” – Lão thường nhắc học trò như vậy.
Đặc biệt, trong ngũ hành, chỉ có Thủy và Hỏa là không nhờ hành khác để sinh – nó tự tồn tại như chân nguyên. Nên người xưa mới nói: biết Thủy Hỏa là biết toàn bộ, hiểu căn khí sinh mệnh. Như huyết là Thủy có sắc đỏ vì đi theo Hỏa, như khí của Tâm cần Thận tàng hỏa để nuôi dưỡng.
Bà con để ý những chứng bệnh như mất ngủ, hay thở dốc, lòng bồn chồn, ăn không tiêu – không hẳn do Tâm hay Phế – mà gốc lại là ở Thận không giữ khí, ở Hỏa không bốc đúng đường, ở Mộc bị uất rồi phản lại khắc Thổ.
Nhắn gửi từ Lão
Lão mong bà con đừng chỉ nhìn biểu hiện mà coi đó là gốc. Mỗi bệnh, mỗi chứng đều có căn cơ sâu xa – là khí hành chưa thông, là hành bị khắc chế, là tạng phủ chưa quân bình. Học Ngũ hành là để hiểu, để thuận, để trị từ gốc rễ. Có vậy thì thân mới yên, bệnh mới lùi, tâm mới an.
Với những bà con thấy cơ thể mình “trái mùa, lệch khí” – như mùa hạ mà lạnh bụng, mùa đông lại trào hỏa – thì đó là dấu hiệu cho thấy khí hành trong người chưa thuận. Lão khuyên nên sớm được bắt mạch, xem lưỡi, xét kỹ toàn trạng để hiểu đâu là hành vượng, đâu là hành suy – từ đó mới định được hướng điều trị đúng đắn.
Để được Lão xem xét cụ thể và đưa lời khuyên phù hợp, bà con có thể liên hệ qua Zalo 0972.606.773 hoặc Messenger Lão Tuấn. Lão sẽ hướng dẫn tận tình, ai ở xa cũng có thể gửi ảnh lưỡi, kết quả xét nghiệm để Lão thăm khám từ xa.
Lão Tuấn – Tinh hoa y học dân tộc

Lão gửi gắm đôi điều:
Đông y trị bệnh là khai thông khí huyết, điều hòa âm dương, dưỡng tạng phủ cho vững – có gốc mạnh thì ngọn mới bền!


